Trước đây nghĩ rằng Đạo Sư là người chỉ ta đường đi lối về, là người chỉ ra thành công và tương lai sáng lạng cho mình. Mãi về sau mới hiểu rằng không người thầy nào có thể mang lại lời hứa cũng như đảm bảo thành công cho học trò của mình.
Thành công của mỗi người hay con đường của mình cũng chỉ do mình lựa chọn bước đi mà thôi. Không ai có thể dọn sẵn cho mình.
Vậy Đạo Sự dạy ta điều gì?
Ta nói con nghe, ta mất 30 năm cuộc đời để rồi cuối cùng nhận ra không nên đi con đường đó.
Đạo Sư đơn giản là người truyền cho ta kinh nghiệm để đừng lầm đường lạc bước, kinh nghiệm đã được trả giá bằng chính cuộc đời họ.
Dưới đây là vài trong số những Đạo Sư của tôi. Có nhiều người tôi không nhớ để liệt kê vô đây, nhưng trong danh sách này là những người thầy đã để lại cho tôi nhiều bài học sâu sắc nhất.
Đức Phật
Tôi không là Phật tử, cũng chưa có ý định quy y. Tôi cũng chỉ hữu duyên được chạm đến những lời dạy của ngài. Đức Phật là một người thầy của nhân loại, là người đã để lại cho chúng ta nhiều sự thật, nhiều phương pháp tu chỉnh thân tâm mà tôi luôn coi là kim chỉ Nam của mình:
Quy luật Nhân quả
Giới – Định – Tuệ, ba giá trị cốt lõi của đời người
Phật – Pháp – Tăng, ba báo vật lớn nhất của đời người (thầy giỏi, bạn tốt và sách hay)
Văn – Tư – Tu, phương pháp học hữu hiệu nhất.
Hòa thượng Tịnh Không
Tôi có duyên được nghe nhiều bài pháp của ngài. Nhưng tôi nghĩ người tác duyên lớn nhất giúp tôi suốt những năm đó có thể nghe rất rất nhiều bài giảng của hòa thượng Tịnh Không chính là giọng người lồng tiếng đầy truyền cảm của cô.
Nghe hòa thượng thuyết giảng, tôi được biết khá nhiều đến lời dạy của Phật mà sau này trở thành nguyên tắc sống và là kim chỉ Nam cuộc đời tôi.
Thầy Trần Việt Quân
Tôi hay gọi vui với bạn bè thầy là ông giáo làng. Một thầy giáo làng Việt Nam chính hiệu. Thầy là đồng sáng lập hệ thống trường Pathway Tuệ Đức. Một ông giáo làng nhưng lại có những phân tích và giảng dạy các bài học lớn của thế giới một cách rất hợp logic và dễ hiểu, dễ nhớ, đặc biệt là Phật học.
Bí quyết của thầy là Tư Duy Theo Nhân Quả.
Thầy là người giúp tôi có cái nhìn hệ thống về những lời Phật Dạy.
Thầy là người khai ngộ cho tôi hiểu thế nào là Tư Duy Nhân Quả.
Nhờ thầy tôi có được bộ câu hỏi đơn giản và cao siêu nhất tôi từng dùng: Câu Hỏi Nhân Quả.
Thầy luôn nhắn nhủ với mọi người:
Nhân Quả là quy luật chi phối vũ trụ
Không gì qua được cái Nhân là chính mình
Giới Định Tuệ là năng lực lớn nhất đời người
Phật Pháp Tăng là bảo vật quý nhất thế gian
Văn-Tư-Tu là phương pháp học tuyệt vời nhất
Cô Nguyễn Đoàn Kim Sơn
Cô Sơn là vợ thầy Quân. Sự dạy của cô cũng mang triết lý nhân quả sâu sắc như chồng mình.
Nếu như thầy Quân là người còn nhiều hoài bão và suy tư, cô lại là người nhẹ nhàng thanh thoát lạ kỳ. Lần đầu được nghe cô đọc diễn văn trên hội trường, tôi đã thầm muốn được học cô, để xem cách dạy của cô sẽ như thế nào. Tôi cảm thấy đâu đó một sự buông xã.
Hơn một năm sau tôi mới được học cô trọn một ngày, nhưng cô lại cho tôi cái nhìn rất sâu sắc về mục tiêu của việc đi học.
Mục tiêu cao nhất của việc học là để hiểu được nhu cầu chính đáng của người khác.
Chỉ khi nào đem được hạnh phúc chính đáng cho người khác, khi đó bản thân ta mới thật sự hạnh phúc.
Shane Parrish – Farnamstreet
Tôi là người làm sản phẩm về Social Community, nhưng tôi chưa bao giờ hình dung ra một community tốt thật sự nó hoạt động như thế nào. Farnamstreet là một điển hình. Nó không phải là một linkedin, một quora hay stackoverflow, nó là một thứ hoàn toàn khác. Ở community của fs.blog, một thảo luận có thể kéo dài hàng tháng trời và để đọc hết và nghiễn ngẫm nó, bạn cần cả tuần.
Shane Parrish là người tạo ra Farnamstreet.
Tôi biết đến quy luật Nhân Quả theo cách tiếp cận của phương Tây khi được học về First Principle Thinking từ các bài viết của Shane. Nó là một dạng Tư Duy Theo Nhân Quả, là quy trình đi tìm nhân tố khởi đầu.
Ở Farnamstreet tôi bắt đầu sự nghiên cứu của mình cho các khái niệm về Mental Models. Mặc dù nó không phải là những bài viết xuất sắc nhất về mental models, nhưng nó là duyên khởi đầu cho con đường tìm hiểu về Multi-discipline Thinking của tôi.
Và cuối cùng Farnamstreet giúp tôi hoàn tất một phát thảo đầu tiên về thế giới quan của chính mình.
Kamal Ravikant
What is the truth in this situation
Naval Ravikant
…
Alfred Adler (Life has no purpose)
Seth Godin/Bernadette Jiwa (Marketing can make change)
Garry Keller (The Focus Question)
Goals as making a contract with yourself being unhappy until you reach the goal.
Compared to a person who naturally have results because they have a habit (system) set up.
It’s like setting a goal to lose 10 pounds and falling back to old habits after reaching it. Compared to making a lifestyle of eating healthy and exercise every day.
This way you actually don’t need that goal,
you will reach the result no matter if you have the goal or not.
There is no way to happiness, happiness is the way.
Success is a journey, not a destination.
Goal is just a destination
Habit keeps you on the way.
You need both.
A goal is a theory.
A habit is a practice.
A goal requires you to develop a plan.
A habit enables you to maintain the schedule.
A goal guides the choice of habits.
A habit makes daydreaming become achievement.
Goals are measured with output.
Habits are measured with input.
By the time you get output measures it may be too late.
Good performance on input measures is motivating,
and eventually leads to good output measures.
An achieved goal is a stepping stone to the next, more challenging goal.
A habit is an asset that carries from goal to goal.
Rất ít kỳ quan thế giới có thể hiện rõ trong tâm trí con người mặc dù họ chưa một lần ghé thăm.
Ai cũng sẽ nhớ tượng Nữ Thần Tự Do, tháp Eiffel hay nhà hát Opera House ở Sydney.
Cầu Golden Gate Bridge ở San Francisco là điều đặc biệt trong số đó. Mất 4 năm để hoàn thành cây cầu dài 2 dặm với màu cam rực rỡ.Đọc tiếp Sẽ không có lần thứ 2
Con mình may mắn được học với cô giáo luôn thẳng thắn trao đổi với hội phụ huynh về việc học của các con. Hôm nay cô có trao đổi việc các con nên học Văn như thế nào.
Nhân tiện mình cũng có trăn trở về việc này. Ở đây mình mạo muội không dùng từ Học Văn mà dùng từ Học Viết.
Mình đã đọc nhiều ý kiến về việc học Văn. Cho dù các quan điểm đều mở, nhưng cảm nhận của mình là “Chúng ta luôn coi kết quả của môn Viết là một tác phẩm (Art) “.
Mình chỉ muốn con hiểu: Viết là một công cụ (Tool) để truyền tải thông tin, xa hơn mới mong cầu việc truyền tải quan điểm. Nhưng trước tiên phải dùng tốt nó như một công cụ.
Trong cuốn Homo Sapiens, tác giả nhấn mạnh Quần Thể Người có số lượng cá thể vượt trội hơn hẳn các loài động vật khác ở một khả năng: Bịa Chuyện. Dân gian gọi là Bà Tám, hay nói văn hoa là Hư Cấu Câu Truyện, tiếng Anh gọi là StoryTelling. Đây là năng lực tưởng tượng của con người. Hiểu sâu hơn là năng lực cảm nhận và mô tả thế giới xung quang một cách rất đa dạng.
Hơn nữa, loài người có khả năng truyền tải thế giới quan của mình một cách rất chi tiết. Đối với các loài khác, khi kẻ địch xuất hiện, chúng chỉ truyền được một thông điệp đơn giản là “có kẻ địch”. Con người có thể thông báo “kẻ địch có 4 chân, răng dài, chạy nhanh, đang ở gần suối”.
Chính năng lực giao tiếp phức tạp này đã được sử dụng để tạo nên các câu chuyện về thần thoại, thánh thần và tôn giáo, là chất keo kết dính loài người và cũng chính là công cụ để kích động chiến tranh.
Con người có 5 giác quan, trong đó hết 3 thứ dùng để tự cảm nhận về bản thân mình khi tiếp xúc với thế giới. Hai thứ còn lại là ” Mắt và Tai “ dùng để cảm nhận hình thái của chính thế giới xung quanh. Cái thứ 6 mình tự gọi là khả năng tưởng tượng. Trí tưởng tượng đã đẩy thế giới quan của con người đi xa cực đại. Có thể tốt, có thể xấu, không bàn ở đây.
Một khi đã cảm nhận về thế giới, con người có nhu cầu truyền đạt cái mình biết. Từ lâu con người có 2 công cụ quan trọng để tận dụng năng lực của Mắt và Tai: Đó là Vẽ và Kể Truyện.
Vẽ là công cụ truyền tải thế giới quan qua cảm nhận của Mắt. Là cách mô tả thế giới bằng màu sắc và hình ảnh. Kể chuyện là sử dụng năng lực của Tai.
Viết là công cụ gián tiếp của Kể Truyện. Viết là hình thức nghe bằng mắt. Đó là lý do không ngoa khi đức Phật gọi các đệ tử của ngài là Thanh Văn. Vì chúng ta, loài người, học bằng âm thanh là tốt nhất (theo lời Anan).
Chúng ta khi nói đến học Vẽ hay học Viết, thường liên tưởng nó như là một tác phẩm (Art), quên mất công dụng ban đầu của nó chính là để truyền đạt thông tin. Chúng ta thường hay tập trung vào tính nghệ thuật của nó hơn là tính nội dung.
Ở lớp của con, cô rất coi trọng việc dạy Vẽ. Và kỹ năng này đã cải thiện rõ rệt. Các bạn lớp 1, 2 đã dùng kỹ năng Vẽ để mô tả câu truyện, để học toán. Các bạn lớp 5 thì thuần thục hơn hẳn, giờ có thể thoải mái trình bày ý tưởng bằng hình ảnh có đầy đủ không gian, màu sắc hoàn chỉnh.
Tiếp đây là ý kiến chủ quan của mình về học Viết.
Việc đầu tiên các con cần phải hiểu Viết là nhằm mục đích gì:
Truyền tải thông tin.
Tức là phải dễ hiểu, ngắn gọn, rõ ràng, có chủ đích. Vì thế mình coi trọng Academic Writing. Tức là coi trọng tính cấu trúc, tính đơn giản và hiệu quả của nó.
Thuyết phục được người khác hỗ trợ mình, đồng cảm với mình.
Ở đây các con cần hiểu rõ mình muốn truyền tải cái gì, người nghe là ai, cần nghe cái gì, cái nào là quan trọng.
Đây là 2 mục tiêu mình mong muốn cao nhất. Vì cả đời các con sẽ luôn dùng 2 thứ này trong mọi mặt đời sống. Tất nhiên không loại trừ các con sẽ phải biết áp dụng các liệu pháp Văn Học khác để làm cho bài viết thêm hấp dẫn.
Một tác dụng kinh khủng khác của Viết chính là giúp các con hiểu rõ hơn điều mình muốn truyền đạt. Chỉ khi viết ta mới bắt đầu cảm nhận là mình chưa hiểu gì về cái cần nói. Cấu trúc hay trật tự của ý tưởng thật là lung tung.
Điều quan trọng nhất là thầy cô và phù huynh truyền cảm hứng để các con Viết nhiều. Giống như Vẽ nhiều vậy. Viết những thứ thật đơn giản, nhẹ nhàng, đừng đặt nặng về hình thức.
Viết nhiều thì có ngày cũng ra tác phẩm, đó là ẩn tướng của hình thái phi cấu trúc, cứ viết đi, miễn nhiều người đồng cảm là thành tác phẩm rồi.
Đây là bài copy lại trên Facebook tôi đã đăng vào ngày 21/7/2017.
Năm nay con gái vào lớp 1, hai vợ chồng lo chạy trường, lo tìm hiểu các phương pháp giáo dục cho con mới chợt nhìn lại anh lớn năm nay đã vô lớp 5.
Bạn biết đủ thứ, cái gì cũng bắt chước được, tuy nhiên bắt đầu có những biểu hiện bớt tò mò, bớt quan tâm tới thế giới xung quanh, bớt đặt câu hỏi và đặc biệt là không biết mình phải làm cái gì bây giờ. Nếu tắt internet hoặc tivi bạn sẽ trở nên stuck và thụ động. Đến một nơi lạ là sẽ hỏi giờ mình làm cái gì bây giờ đây ba?
Ngẫm lại bản thân, ở tuổi U40 mình cũng không biết phải làm cái gì tiếp theo bây giờ. Có nhiều câu hỏi tự đặt ra cho bản thân cũng không biết phải trả lời làm sao?
Tôi là ai?
Tôi đang làm gì đây?
Tôi phải làm gì để thích ứng với thế giới đang đổi thay chóng mặt thế này?
Tôi nên làm cái gì với những thứ tôi đang có trong tay?
Ngày nay chúng ta sống trong thế giới mà mình không biết nó sẽ thay đổi như thế nào trong 10 năm tới, vì vậy trẻ em phải được đào tạo để có năng lực đối mặt với sự thay đổi một cách tự tin và quyết đoán. Ở cái tương lai mà robot có thể làm thay con người thì kỹ năng có vẻ như không còn quan trọng nữa. Ở cái tương lai mà bất kỳ kiến thức nào trẻ con đều có thể kiếm được sau vài phút thì việc đến trường để tiếp thu cái kiến thức nó không còn quan trọng nữa.
Vậy con người tương lai cần gì? Có vẻ như năng lực (capacity) lại trở nên quan trọng hơn kỹ năng (skill).
Chúng phải có khả năng linh hoạt, chúng phải có khả năng thích ứng, chúng sẽ phải biết gắn kết, chúng sẽ phải sáng tạo và phải có khả năng tưởng tượng ra một thế giới mà chúng muốn thay đổi.
Với trí tưởng tượng chúng có thể tự thiết kế nên thế giới của chính mình và khi đó máy móc sẽ làm phần lớn công việc còn lại.
Vậy ngôi trường nào cho con? Thật là khó quyết định khi cái hệ thống giáo dục cũ vẫn ám ảnh quá lớn đến suy nghĩ và hành xử của thế hệ chúng ta, trong khi làn gió giáo dục mới vẫn chưa đủ vững vàng để có thể khẳng định rằng sẽ thổi một luồng sinh khí mới cho thế hệ tiếp theo. Đưa con vào một hệ thống nào cũng đều là sự đánh đổi mang nhiều rủi ro của ba mẹ. Cuộc đời của một đứa trẻ lại là cuộc chơi mang nhiều tính may rủi của người lớn. Nhưng ở cái tuổi này mình tin rằng sức mạnh của kiến thức cũng chỉ bó hẹp phần nào trong giới hạn hiểu biết của chính nó, trí tưởng tượng mới mang lại không gian không giới hạn cho tương lai của một đứa trẻ.
Tự nhìn bản thân và thế giới xung quanh, mọi thứ thay đổi quá nhanh, rất rất nhiều người trong độ tuổi 40, 50 không biết mình sẽ phải làm gì trước sự thay đổi quá lớn này. Khi nhỏ, họ chỉ được dạy một nghề, một kỹ năng duy nhất để làm một công việc duy nhất, và khi thế giới thay đổi, họ ko còn biết làm gì nữa, họ không có năng lực để đối diện nó.
Thực tại con trẻ
Trong một chuyến đi chơi, tôi đã không cho cậu con trai lớn ngồi xem Tivi, thế là cậu buồn chán phát biểu: “Con buồn muốn chết ba ơi.“
Thật sững sờ khi một người cha được nghe điều này. Mọi thứ xung quanh con đang đẹp đẽ biết bao, nhưng con lại không nhìn thấy nó, không cảm thấy nó. Tôi chợt cảm giác về một thực tại buồn của thế hệ trẻ con cháu chúng ta.
Bon trẻ không sống với những gì đang diễn ra xung quanh chúng. Chúng hoàn toàn theo khuôn mẫu, không sáng tạo, không có trí tưởng tượng, không có nội lực, không biết tự chơi, không tự lập, phụ thuộc máy móc, không biết làm gì khi không có TV hoặc internet, rất sợ thầy cô nên không thích đi học. Mệt mỏi, đánh mất trẻ thơ, phát triển không hoàn chỉnh thể chất và tâm hồn…
Thực tại giáo dục
Sự bí ẩn của giáo dục trong thế kỉ trước phụ thuộc vào độc quyền về thông tin. Ngày nay công nghệ làm thay đổi thế giới. Rào cản về thông tin không còn. Bí mật về thế giới ngày càng hiển lộ.
Thông tin đang trở thành một thứ quá thừa thải. Sự học không còn nằm ở việc tiếp cận thông tin. Sự học quay về việc nuôi dưỡng năng lực chọn ra cái gì đáng để theo đuổi, năng lực để quay trở về với những sự thật cơ bản nhất, năng lực để theo đuổi con đường đã chọn.
Cơ hội đang dành cho một thế hệ mới nắm vững những năng lực cơ bản. Năng lực để tự tìm về những kinh nghiệm hữu ích, hơn là đắm chìm trong hằng hà sa số những thông tin (signal vs noise).
Vai trò của giáo dục không còn nằm ở cung cấp kiến thức hay quyền tiếp cận thông tin. Kiến thức sẽ trở nên lỗi thời khi trẻ lớn. Giáo dục là sự chuẩn bị cho một thế giới thay đổi choáng ngợp.
Giáo dục phải ươm mầm cho trẻ năng lực để hành động (act), năng lực để cảm nhận (feel) và năng lực để chọn lựa (think).
Con đường đến với giáo dục Waldorf Steiner
Tôi đến với Waldorf Steiner như một duyên tình cờ của một người bạn. Cô ấy khoe cho con đi học trường làng. Mà rất làng ấy, làng xàng luôn. Tôi đến thăm trường lần đầu tiên với một cảm giác bàng hoàng. Tôi vào một ngôi trường khá vắng, cơ sở vật chất cũng không mấy khang trang. Tôi gặp một bạn trai nhỏ, ngồi một mình một góc phòng, đầu cuối sát, ngồi… đan len. Không có ai chơi với bạn. Thôi chết, đứa này nó tự kỉ à?
Nhưng góc nhìn của tôi lại khác đi khi tôi bắt đầu tìm hiểu sâu hơn về phương pháp giáo dục này. Tôi nghĩ mình thật may mắn khi đã dành đủ thời gian để tìm hiểu sâu hơn về phương pháp giáo dục cổ điển này.
Sau này mỗi khi nhìn cậu con trai lớp 7 của tôi một mình thoăn thoát ngồi đan len hay làm mộc cho các sản phẩm sáng tạo của con, tôi lại chợt mỉm cười về hình ảnh một đứa trẻ tự kỉ của mình.
Một đứa con trai lớp 7 có thể yêu thích việc đan móc là không phải đùa đâu đấy.
Lịch sử giáo dục Waldorf Steiner
Được sáng lập bởi ông Rudolf Steiner, một nhà triết học, nhà văn người Áo. Lớp học đầu tiên được thành lập vào năm 1919 ở Stuttgart – Đức tại một nhà máy thuốc lá tên là Waldorf-Astoria Cigarette, mục đích là để trong coi và giảng dạy cho con của các công nhân làm việc tại đây.
Waldorf Steiner’s Core Value
building capacity (Steiner) vs building skill (truyền thống)
capacity to act (to play / to do / to create)
capacity to feel (to observe / to learn / to live)
capacity to think (to focus, to choose)
Hiểu của tôi về Skill vs Capacity
Kỹ năng – skill (đo lường được) là sự thuần thục trong việc tiến hành một công việc cụ thể nào đó (physical or mental) .
Ví dụ: đóng một cái bàn mất 05 ngày, hoặc làm một đôi giày trong 10 ngày.
Trong khi năng lực – capacity, ở mặt khác là thứ hoàn toàn không thể đo lường được. Capacity refers to your potential to handle a situation or event. An example would be observing how you handle stress or sudden changes.
Ví dụ: 02 người thợ cùng có khả năng đóng 5 cái bàn trong 5 ngày (skill). Tuy nhiên nếu không may họ phát hiện sản phẩm của mình đã lỗi thời và không có người mua. Vậy năng lực (capacity) được thể hiện ở chỗ ai có thể uyển chuyển tìm cách để giải quyết và xử lý số sản phẩm của mình một cách tốt đẹp nhất.
The virtue of Steiner education
Anthroposophy as the philosophical backdrop, to understand the workings of the universe, people must first have an understanding of humanity.
A holistic approach, not just on intellectual development, but also artistic skills
Teachers move with their students through the primary grades, creating a sense of stability and security
Music and art are central components, express thought and emotion are taught through art and music.
Place premium on imagination/fantasy.
Encouraged to use their imaginations, expects the child to create her own toys and other objects.
Do not grade your child’s work, focuses more on a child’s potential and growth, rather than on the accomplishments
Use of eurythmy. Eurythmy is an art of movement, the art of the soul
Hứa hẹn của giáo dục Steiner
Phát triển hoàn chỉnh thể chất
Phát triển hoàn chỉnh tâm hồn
Phát triển năng lực hơn là kỹ năng
Hiểu chính mình, biết mình muốn gì, cần gì
Phát triển khả năng lực tự học
Năng lực tự chơi với những gì mình đang có
Năng lực tự làm việc với những gì mình đang có
Nuôi dưỡng sự hứng thú và tò mò với thế giới xung quanh
Nuôi dưỡng trí tưởng tượng
Năng lực thể hiện (self-expression). Sản phẩm trẻ làm thường trở nên đơn giản, đẹp và ấn tượng hơn.
Đứa trẻ sẽ tự nhiên chơi và làm, không cần ai phải cầm tay chỉ việc con điều gì.
Đó là điều tự nhiên con sẽ làm, nếu con muốn, vì con có năng lực để tự làm chuyện đó.
Tại sao chọn Steiner mà không phải là Montessori
Đã biết Montessori từ lâu, cũng ù ù cạc cạc mua đồ chơi Montessori cho con từ nhỏ, nhưng không tìm hiểu về Montessori. Rồi bén duyên với Steiner trước và bắt đầu có sự so sánh ngược lại với Montessori. Nói thật mình cũng chỉ tìm hiểu Steiner, còn so sánh với Montessori chỉ là kết quả của việc đọc cảm nhận và đánh giá của người khác. Dưới đây là nguyên nhân chọn Steiner mang tính chủ quan của mình.
Cũng do tùy duyên. Mình biết Montessori trước, nhưng tìm hiểu Steiner lại kỹ hơn.
Mình tin vào năng lực của sự tưởng tượng. Và theo cảm quan của mình, Steiner hòa quyện sự tưởng tượng trong chính hoạt động hàng ngày của con bằng những thứ vật dụng đơn giản nhất, những hoạt động nhiều hình ảnh nhất.
Mình tin vào năng lực hãy làm và chơi với bất kỳ những gì mình đang có của Steiner.
Minh tin vào khái niệm bàn tay ta làm nên tất cả.
Không có trường thuần Montessori thật sự ở Sài Gòn. Và sau này nghiên cứu kỹ cũng không có chuẩn mực nào cho Montessori.
Mình tin và cảm được năng lực của những thầy cô dạy Steiner mà mình được tiếp xúc.
Steiner biết rõ ở mỗi độ tuổi cần làm gì về thể chất và tâm hồn cho trẻ. Steiner có khái niệm AgeWise (ở mỗi lứa tuổi trẻ sẽ có một sự phát triển và sự thông thái nhất định, nên phải giáo dục phù hợp từ môn học tới trò chơi và vận động)
focus on the child’s potential and growth, rather than on the accomplishments
Teacher-directed
Academic subjects are not introduced to children until an age
math, reading, and writing – are viewed as not the most enjoyable learning experiences
Encourage playing, imagination, art, music activities
non-traditional methods of assessments
focus on the child’s potential and growth, rather than on the accomplishments
Spirituality
No.
Flexible and adaptable to individual needs and beliefs.
Rooted in Anthroposophy (To understand the universe, first must understand humanity)
Learning Activities
Respect a child’s need for rhythm and order in his daily routine
Believe in a hands-on as well as an intellectual approach
Toys should teach concepts
Using pre-designed & approved toys
Strong sense of societal reform
Avoid violence, build a better world
6 years cycle
Respect a child’s need for rhythm and order in his daily routine
Believe in a hands-on as well as an intellectual approach
Imagination is the child’s most important ‘work’
Encourages the child to create own toys with materials at hand (Bàn tay ta làm nên tất cả)
Strong sense of societal reform
Avoid violence, build a better world
non-traditional methods of assessments
7 years cycle
Use of Computers and TV
Leave to parents
Very rigid about not wanting young people exposed to popular media.
Waldorf wants children to create their own worlds
Watching TV blocks children to copy, not to create
Place a premium on fantasy/imagination in the early years
Only allow computers on upper school grade (7 grade or latter)
Adherence to Methodology
There is no standard.
There are many flavors of Montessori
Stick pretty close to standards set out by the Waldorf Association.
Tại sao chọn Tre Xanh
Vì tin vào phương pháp Waldorf Steiner
Vì cảm được năng lực cũng như tình yêu của các cô ở Tre Xanh.
Tận dụng cơ hội thầy cô ở Tre Xanh là những cánh chim đầu đàn tâm huyết về Waldorf Steiner. Người tiên phong luôn có tâm, có tầm thì ắt giỏi.
Mình có nhiều bạn đang cho con theo học ở đây và đánh giá tốt.
Tận dụng độ tuổi thích hợp cho con. Với Waldorf Steiner càng nhỏ càng học càng tốt. Để nó già hơn là không thấm nhuần được tinh hoa. Vì không tận dụng được Age-Wise
Vì bạn lớn lớp 4 đang có vấn đề với phương pháp giáo dục truyền thống
Không, vì ông này sáng lập một môn gọi là Anthroposophy, nó nghiên cứu sự phát triển về thể chất và tâm hồn con người, môn này kết hợp nhiều yếu tố về spiritual nên nhiều người lầm tưởng. Mình đã từng e dè một người Việt học Steiner và quá cuồng về Anthroposophy, nhưng sau khi gặp gỡ những người trực tiếp giảng dạy, mình nhận thấy nó chỉ là những ritual cần thiết giúp cho trẻ tốt hơn.
What are the origins of the anti-technology approach of the Waldorf Steiner Education?
What children need to learn today is that which will be of use for a lifetime. More than anything, they will need a well-developed imagination and an insatiable lust for learning. They will need strong interpersonal communication skills. They will need to be able to think on their feet and be comfortable in their own skin.
More than rejecting computers for young students, Waldorf Steiner Schools simply do not see any benefits in having computers before middle school. The official policy in some schools is no tech until 7th grade. This is because it erodes the naturally occurring development of the imagination and interferes with the ability to focus.
Cho nên sự hào nhoáng của công nghệ cũng như các pre-boxed product/toys làm tiêu diệt khả năng tưởng tượng của con. Nên tránh xa.
Người vốn tính tò mò, ham học hỏi, là dân công nghệ thông tin, thích cơ khí, yêu làm mộc và muốn tìm hiểu về storytelling để làm điều có ích.
Thấy được có nơi hội tụ nhiều yếu tố như vậy thật là sung sướng lắm. Tin ngày nào đó sẽ đủ duyên được làm trong môi trường như vậy. Vì giờ mình đã hiểu hơn về mình. Đó là điều tốt.
Nhân đọc bài viết nói về tác động của nghề Sales và Marketing đã làm thay đổi linh hồn vốn có của trò chơi Lego, từ một huyền thoại là cái nôi nuôi dưỡng trí tưởng tượng, sự sáng tạo, nay Lego trở thành một khái niệm gọi là Disassembled Toys.
Bài viết đề cập năm 1974, Lego đã tung một quảng cáo rất hay, thể hiện linh hồn vốn có của nó, đề cao trí tưởng tượng, không phân biệt bé trai hay gái. Trò chơi vốn dĩ là trò chơi, con chơi theo cách của con, theo trí tưởng tượng của con, trai gái như nhau.
“It’s the imagination that counts. Not skill. You build whatever comes to your mind, the way you want it.”
Nhưng từ năm 2012, để tăng doanh số, Lego bắt đầu cho ra những bộ trò chơi dành riêng cho bé trai, hoặc bé gái. Thậm chí là đồ chơi khi ra lò đã được định hướng cụ thể theo chủ đề nào đó để dễ hơn cho việc Sales và Marketing.
Instead of starting with a child’s imagination of what could be, play is now fixed on a single endpoint, predetermined by Lego’s designers.
Mình quan sát con chơi Lego từ nhỏ và đã nhận ra sự thay đổi này.
Hãy quan sát, một khi con bạn thấy một mẫu xe trong bộ Lego Mechanic, bé sẽ không còn coi trọng chiếc xe thô sơ, kì cục mà hàng ngày bé vẫn tự hào, tự sáng tạo từ những mảnh ghép lego bình thường, giản dị. Kể từ ngày đó, mẫu sáng tạo nào của con cũng không thể sánh bằng chiếc xe hoành tráng trong bộ Lego kia, và sự tưởng tượng của con không bao giờ vượt qua được chiếc xe ấy.
Và như tác giả bài viết đã dùng một ẩn dụ rất hay.
Một khi đồ chơi trở thành một chủ thể, một mô hình nhất định, thì thứ duy nhất con có thể làm là “tháo nó ra” và gắn lại y hệt như thế (disassembled toys ????).
Trong phương pháo giáo dục của Waldorf, người ta hay dùng những con búp bê rất đơn giản, thậm chí không có khuôn mặt. Khi đó trí tưởng tượng của con sẽ làm cho búp bê trở nên sống động hơn, và con có thể chơi theo bất kỳ cách nào con muốn. Nếu con bạn chơi một búp bê tuyệt hảo như Barbie, trí tưởng tượng của con chỉ dừng lại ở cái vẻ đẹp đinh sẵn đó thôi. Đó gọi là sự áp đặt.
Hãy mua cho con vài kí Lego và hạn chế con coi các set được thiết kế sẵn. Khi đó con sẽ tự do là nhà sáng chế bay bổng theo trí tưởng tượng của mình.
Hôm nay tôi viết bài đầu tiên, mặc dù chuyện này đã ấp ủ từ lâu.
Vợ bảo tâm anh không bình an.
Mà đúng thật, tôi có nhiều câu hỏi lớn chưa được giải.
Mỗi ngày qua tôi vẫn băn khoăn “Mình nên làm gì?” Tôi thấy chưa học được gì qua chừng ấy năm làm việc. Tôi thấy mình chưa trưởng thành.
Và ở mỗi lần câu hỏi ấy xuất hiện, tôi thấy đầu óc mình rối mù. Quá nhiều quan điểm đan xen nhau, quá nhiều nỗi sợ xuất hiện.
Tôi gọi tình trạng của mình là “unclear minded”, mặc dù tôi đọc nhiều sách.
Hôm nay may mắn được đọc một tweet:
Mọi thứ đối với tôi như bừng tỉnh.
Anh Trần Việt Quân, nhà sáng lập trường Tuệ Đức Pathway vẫn luôn tặng học trò mình 3 chữ:
Văn – Tư – Tu
Thật ra đó là lời Phật dạy.
Học là tiếp thu và chuyến hoá kiến thức mới thành kỹ năng thông qua chiêm nghiệm và thực hành.
Tôi đọc nhiều, nhưng chưa bao giờ thật sự ngồi lại đúc kết và suy ngẫm về những điều đó. Chưa nói là ứng dụng vào cuộc sống.
Với bài viết này, tôi mở ra một chương mới cho chính mình. Tôi sẽ chiêm nghiệm nhiều hơn, viết nhiều hơn về những điều mình học, những việc mình làm. Tôi mong có thể chia sẽ kinh nghiệm với tất cả bạn bè, những người có nhiều băn khoăn giống tôi.
Tôi tin rằng tâm trí chúng ta ngày sẽ càng sáng hơn, từ hôm nay.